1. BÀI CHÒI LÀ GÌ VÀ NÓ BẮT NGUỒN TỪ ĐÂU?
Hiện nay, một số nhà nghiên cứu đưa ra luận cứ rằng Ðào Duy Từ (1572-1634), người Thanh Hóa, theo chúa Nguyễn vào Nam, điểm dừng chân đầu tiên của ông là Bình Định. Đào Duy Từ đã dựa theo mô hình tiêu khiển ở các chòi canh miền núi mà sáng tạo ra hội bài chòi. Từ lối sinh hoạt văn hóa nương rẫy, ông ứng dụng vào trò chơi đánh bài trên chòi, dần dần có tên gọi là hội đánh bài chòi. Về sau, hội bài chòi thường được tổ chức trong những dịp xuân nên được gọi là hội đánh bài chòi xuân.
Hát chòi thường được tổ chức thành một lễ hội.
Hội này thường được tổ chức ở làng quê vào dịp tết Nguyên Đán. Người ta dựng 9 hoặc 11 chòi, chia thành 2 bên, mỗi bên 5 chòi, mỗi chòi cao độ 2-3m, rộng đủ vài ba người ngồi và một chòi trung tâm (chòi mẹ) ở giữa dành cho các vị chức sắc địa phương.
Bộ bài để đánh bài chòi là bộ bài tam cúc cải tiến, gồm 33 lá, với những tên chuyển thành nôm na như: nhứt nọc, nhì nghèo, ông ầm, thằng bí, lá liễu v.v.. vẽ trên giấy, dán vào thẻ tre. Mỗi thẻ tre dán ba con bài, không trùng lặp nhau.
Bộ bài gồm 3 pho, đó là:
- • Pho văn: ông Ầm, tráng hai, ba bụng, tứ tượng, ngũ ruột, sáu miếng, lá liễu, tám miếng, chín cu, chín gối.
- • Pho vạn: bạch huê, nhất trò, nhì bí, tam quăng, tứ móc, ngũ trợt, lục chạng, thất vung, bát bồng, cửu điều.
- • Pho sách: ông Tử, nhất nọc, nhì nghèo, ba gà, tứ sách, ngũ dụm, sáu bưởng, bảy thưa, tám dây, cửu điều.
Mỗi pho có 10 lá, vì phải có 33 lá nên thêm vào 3 lá nữa là: ông ầm đen, tử cẳng đen và cửu điều đen (để phân biệt với 3 lá cùng tên này nhưng màu đỏ) cho đủ bài chơi.
Vào cuộc chơi, anh hiệu (tức người hô thai) xốc ống bài, rút ra một con và xướng tên con bài lên. Để gây thêm sự hồi hộp và bắt người chơi phải suy đoán, anh hiệu hô lên một câu thai hoặc một câu ca dao có tên con bài. Chòi nào trúng tên con bài thì gõ mõ để anh hiệu mang con bài đến. Trúng ba con bài là chòi đó “tới”, xổ một hồi mõ dài. Khi đó, anh hiệu cầm lá cờ nhỏ, bưng khay rượu tới trao phần thưởng cho người trúng. Lá cờ đuôi nheo bằng giấy cũng được cắm lên chòi để đánh dấu một lần thắng.
Để giúp vui cho cuộc chơi còn có một ban nhạc cổ gồm đờn cò, kèn, sanh, trống hòa tấu lên khi có chòi “tới”.
Các câu khai Hát bài chòi:
Đi đâu cọ xiểng đi hài
Cử nhơn không đậu, tú tài cũng không. (Thằng TròAi làm thượng hạ bất thông
Bàng quang bể thủng sớm trông tối ngày. (Thằng Bí)
Nửa đêm gà gáy le teMuốn đi rón rén đụng nghe cái ầm.(Ông Ầm)
Lưng choàng áo đỏ
Đầu đội khăn đenChân đi lèng quèng
Là ông chân gãy.(Tử Cẳng)Lội suối trèo non
Tìm con chim nhỏ
Về treo trước ngõ
Nó gáy cúc cu. (Chín Cu)Chầu rày đã có trăng nonĐể anh lên xuống có con em bồng. (Bát Bồng)
Đi đàng phải bịt khăn đen
Ở nhà vợ sắn vóc sen nhuộm điều. (Cửu Điều)
2. HÌNH THỨC CHƠI BÀI CHÒI Ở AN BẰNG:
Như mọi năm, hội bài chòi chợ Tết An Bằng thường tổ chức từ ngày mồng một đến ngày mồng mười tháng giêng Tết. Người tổ chức là anh Nguễn Đoàn và các anh Việt, Đế.
Cách chơi: mỗi người sẽ nhận được ba quân bài do ban tổ chức chia theo ngẫu hứng tự nhiên và đóng vào 150.000 đồng, được chơi 10 váng.
Cơ cấu giải: Mỗi lần tới là được 150.000 đồng và một lá cờ đỏ giấy. Nếu tới ba lần sẽ được một lá cờ vải đỏ có hình tam giác không đều. Tới bốn lần sẽ được một lá cờ vải đỏ có hình tam giác cân. Tới năm lần sẽ được một lá cờ vải đỏ có hình chữ nhật. Người tới nhiều sẽ được nhiều cờ và mang về treo trong nhà xem như đó là vận may của mình trong năm mới.
Tin và hình Lê Bát